Với sự tham gia của đội ngũ giảng viên cấp quốc gia nhằm hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho đội ngũ giảng viên cấp tỉnh trong quá trình giảng dạy tại các lớp tập huấn về quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng cho cán bộ cấp xã và thôn. Bản thân tôi, sau khi tham gia đợt hỗ trợ kỹ thuật việc thực hiện ớp tập huấn và đánh giá rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng có lồng ghép giới thuộc xã Quang Húc, Huyện Tam Nông, Phú Thọ, tôi đã rút ra được thực trạng về tình trạng dễ bị tổn thương của cộng đồng dưới lăng kính giới và đánh giá công tác quản lý, phòng chống rủi ro thiên tai tại xã Quang Húc như sau:
Quang Húc là một xã miền núi của huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, địa hình bị chia cắt thành hai khu vực khu A và khu B hai bên bờ con sông Bứa chảy qua, giao thông từ khu A sang khu B chưa có cầu xây kiên cố, mới chỉ có cầu phao giúp bà con qua lại bằng xe đạp, xe máy. Điều kiện đi lại sinh hoạt gặp nhiều khó khăn trong mùa mưa bão do cầu phao bị cắt. Vì vậy rất khó khăn trong công tác PCLB. Về cơ sở hạ tầng: Điện, đường, trường, trạm y tế, trụ sở làm việc đã được đầu tư xây dựng cơ bản, bước đầu đáp ứng nhu cầu phục vụ cho hoạt động thường xuyên của các cơ quan, tổ chức xã hội. Về phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội:mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng dưới sự quyết tâm chỉ đạo của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, sự phối hợp của Uỷ ban MTTQ và các đoàn thể, sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân, Kinh tế - Văn hóa – Xã hội được duy trì và phát triển, an ninh chính trị - trật tự và an toàn xã hội được ổn định và giữ vững, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.
1. Tình trạng dễ bị tổn thương của cộng đồng trước các loại hình thiên tai
Tình hình dân số và phân bổ dân cư:Toàn xã có 915 hộ trong đó có 103 hộ nghèo với số khẩu là 4016 người, số người trong độ tuổi lao động là 1259 người. Đối tượng dễ bị tổn thương gồm: người cao tuổi, trẻ em và phụ nữ có thai, nuôi con dưới 12 tháng chiếm khá đông (theo biểu dưới)
Dân số
|
Xã Quang Húc
|
Tổng
|
Nam
|
Nữ
|
Số hộ
|
915
|
|
|
Số khẩu
|
4016
|
2070
|
1946
|
Số hộ nghèo
|
103
|
|
|
Độ tuổi lao động
|
1260
|
602
|
658
|
Đối tượng dễ bị tổn thương:
|
- Người cao tuổi
|
464
|
160
|
304
|
- Trẻ em:
+ Tiểu học: 241 học sinh
+ THCS: 218 học sinh
+ Độ tuổi Mầm non: 237 cháu
|
696
|
|
|
- Người khuyết tật
|
69
|
15
|
54
|
- Phụ nữ có thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi
|
115
|
|
115
|
- Người bị bệnh hiểm nghèo
|
09
|
|
09
|
Toàn xã có tổng số 915 hộ trong đó có 103 hộ nghèo; Tổng số các đối tượng dễ bị tổn thương là 1351 người bao gồm: trẻ em là 696 cháu (trong đó, 340 là trẻ em gái- 356 là trẻ em trai) người già 464 người, người khuyết tật 69 người, phụ nữ mang thai và đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi là 115 người, người bị bệnh hiểm nghèo là 09 người. Đây là nhóm những đối tượng mà địa phương cần thường xuyên quan tâm, đặc biệt trong phòng chống thiên tai, địa phương cần xây dựng phương án di dời, hỗ trợ, giúp đỡ, động viên các đối tượng này khi cần thiết trong 3 giai đoạn trước- trong- sau thiên tai.
Phân bổ dân cư: Toàn xã có 9 khu hành chính được chia làm 2 khu là Khu B (gồm có khu 4,5,6,7,8,9) và khu B (gồm có khu 1,2,3) với số hộ, số khẩu và số lượng các đối tượng dễ bị tổn thương phân bổ tại 9 khu hành chính như sau:
TT
|
Khu
|
Số hộ
|
Số khẩu
|
Số hộ nghèo
|
Đối tượng dễ bị tổn thuơng
|
Người cao tuổi
|
Trẻ em dưới 6tuổi
|
Người
khuyết tật
|
Phụ nữ
Có thai
nuôicon nhỏ<12th
|
Người bệnh hiểm nghèo
|
1
|
Khu 1
|
123
|
496
|
10
|
36
|
37
|
11
|
13
|
2
|
2
|
Khu 2
|
122
|
559
|
12
|
76
|
45
|
10
|
20
|
|
3
|
Khu 3
|
134
|
592
|
9
|
87
|
47
|
12
|
18
|
|
4
|
Khu 4
|
64
|
317
|
8
|
49
|
33
|
4
|
17
|
|
5
|
Khu 5
|
107
|
508
|
18
|
70
|
42
|
8
|
11
|
2
|
6
|
Khu 6
|
102
|
417
|
14
|
59
|
29
|
9
|
5
|
2
|
7
|
Khu 7
|
94
|
499
|
12
|
47
|
43
|
3
|
13
|
1
|
8
|
Khu 8
|
85
|
335
|
10
|
24
|
25
|
7
|
10
|
1
|
9
|
Khu 9
|
84
|
293
|
10
|
16
|
22
|
5
|
8
|
1
|
|
Tổng
|
915
|
4016
|
103
|
464
|
323
|
69
|
115
|
09
|
Với thực trạng nhóm dễ bị tổn thươngnêu trên, mỗi khu dân cư đều cần có đội ứng cứu tại chỗ để hỗ trợkịp thời cho các nhóm này.
Việc sử dụng đất, nước, rừng (tài nguyên thiên nhiên): Tổng diện tích tự nhiên của xã là: 731,29 ha, trong đó:
+ Đất thổ cư (đất ONT): 31,5 ha
+ Đất nông nghiệp: 486,19 ha
+ Đất phi nông nghiệp: 198,71ha
+ Đất chưa sử dụng: 45,57ha.
Là vùng nằm ven sông Bứa, đất đai phần lớn là đất phù sa nên thích hợp cho trồng cây ngô và các loại cây màu khác, ngoài ra diện tích mặt nước lớn (97,0 ha) thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Về sản xuất trên địa bàn xã người dân chủ yếu sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi nhỏ lẻ. Diện tích hoa màu chủ yếu nằm ở khu vực đất thấp ngoài đê như Soi Cây Sung, Trà Lau, Hậu Sinh, Soi Công, Đồng Lốc, Soi Ngô, soi Non…, một số vùng trũng thấp trong đê như Khu Nhà Cầu, Khu Trầm Gon, Múc Mưa, Đầm Ao Voi, Cầu Đá, Đồng Đọ trũng, Tề trũng, Dõng, Đồng Ngà… , rất dễ bị ngập úng khi mưa lớn xảy ra gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Các lồng cá của các hộ nuôi trồng thuỷ sản nằm chủ yếu trên sông Bứa nên có nguy cơ bị thiệt hại vào mùa mưa lũ. Các khu vực Soi Cây Sung, Láng, Soi Non, Hậu Sinh, đầu Soi Công, Vộc Vồi có nguy cơ sạt lở đất gây mất đất canh tác. Hiện tượng ngập úng dẫn đến nhiều diện tích gieo trồng lúa chỉ trồng được 1 vụ, diện tích đất soi bãi thường xuyên bị ngập úng vào mùa lũ, một số diện tích canh tác lại ở vị trí cao, hệ thống tưới khó lên nên thường bị thiếu nước về mùa khô dẫn đến mất mùa hoặc giảm năng xuất cây trồng, ảnh hưởng đến chăn nuôi; làm giảm thu nhập từ sản xuất nông nghiệp ngoài ra ảnh hưởng đến sức khoẻ con người nhất là những đối tượng dễ bị tổn thương.
Một số cơ sở hạ tầng thiết yếu khác của xã:
Trường mầm non ở hai khu A và khu B: Là 2 khu nhà cấp 4 với 08 phòng học, tổng sức chứa là 250 cháu. Trường có 08 lớp với 237 cháu và 17 cán bộ, giáo viên. Trường tiểu học ở hai khu A và khu B: Trường khu A có 2 dãy nhà hai tầng kiên cố, có 16 phòng học với sức chứa 320 người; Trường khu B nhà cấp 4 có 5 phòng với sức chứa 90 người. Trường có 13 lớp với 241 học sinh và 22 cán bộ, giáo viên. Trường THCS ở Khu A có 03 dãy nhà hai tầng kiên cố với 28 phòng, sức chứa 240 người và 01 dãy nhà cấp 4 với 3 phòng, sức chứa 80 người. Trường có 08 lớp với 218 học sinh và 20 cán bộ, giáo viên. Nhìn chung cơ sở hạ tầng của các trường học đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt và học tập của các cháu học sinh. Trường mầm non, trường tiểu học của Khu A dễ bị ngập vì ở địa thế thấp, trũng.
Xã hiện có 01 trạm y tế nhà cấp 4 có 5 phòng làm việc phục vụ cho công tác khám chữa bệnh cho khoảng 30 người. Trạm y tế đã xuống cấp và thiếu phòng làm việc, thiếu trang thiết bị khám chữa bệnh cho cộng đồng. Hiện tại xã đang xây dựng trạm y tế mới kiên cố và đạt chuẩn theo tiêu chí “nông thôn mới”. Về đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế: Trạm có tổng số 5 cán bộ trong đó có 1 bác sỹ; 2 y sỹ, 1 điều dưỡng trung cấp, 1 dược sỹ trung cấp. Có 9 cán bộ y tế khu trên cả 9 khu hành chính. Công tác khám chữa bệnh luôn được quan tâm. Trong năm 2013 đã có 3569 lượt người đến khám chữa bệnh, đã điều trị nội chú cho 37 lượt người. Các chương trình tiêm chủng mở rộng, công tác phòng dịch được thực hiện thường xuyên. Hàng năm trạm y tế đã duy trì thực hiện tốt chương trình y tế dự phòng, công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống các bệnh lây nhiễm. Đội ngũ cán bộ y tế thôn tại các khu hành chính duy trì tốt các hoạt động. Hàng năm Trạm y tế luôn dự trữ đủ cơ số thuốc để phục vụ cho công tác phòng chống thiên tai.
Hệ thống thông tin liên lạc: Hiện toàn xã có 01 điểm bưu điện văn hóa xã; Có 03 trạm viễn thông trong đó 01 trạm của Mobifone và 02 trạm của Viettel đã phủ sóng điện thoại và mạng Internet trên tất cả các khu. Có hệ thống loa truyền thanh xuống tất cả các khu đáp ứng tốt cho công tác tuyên truyền, thông tin phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương.
Nhà ở:Toàn xã còn có 803 nhà bán kiên cố, nhiều hộ dân xây dựng nhà ở các khu vực cao, hút gió có nguy cơ bị tốc mái khi bão lốc xảy ra. Ngoài ra có 28 nhà ở ven sông và một số hộ dân nhà ở các khu vực dễ bị sạt lở có nguy cơ bị ảnh hưởng khi mưa lớn xảy ra. Hiện trạng chung về bố trí sắp xếp dân cư và nhà ở do nhân dân xây dựng phân tán rải rác theo quy hoạch tại từng thời điểm khác nhau nên xen lẫn với các khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp và dọc theo các trục đường giao thông. Trong xã có khoảng 10% là nhà kiên cố; còn lại là nhà bán kiên cố, không có nhà tạm bợ, dột nát. Cụ thể: Nhà kiên cố 96 nhà; hộ nhà bán kiên cố 803 nhà; trong đó có 28 nhà ở ven sông.
Nước sạch, vệ sinh môi trường: toàn bộ khu A được sử dụng hệ thống cung cấp nước sạch; còn lại khu B sử dụng nước giếng đào và nước giếng khoan, đảm bảo vệ sinh về nguồn nước sinh hoạt. Nhà vệ sinh: do nhận thức của các hộ dân chưa đồng đều nên có sự chênh lệch về số hộ dân xây dựng và sử dụng nhà vệ sinh tự hoại giữa các khu dân cư. Có các khu như: Khu 1, khu 5, khu 8, khu 3 đã đạt tới hơn 80% hộ sử dụng nhà vệ sinh tự hoại; nhưng ngược lại có những khu như: Khu 2, khu 4 vẫn còn một số hộ sử dụng nhà vệ sinh chưa đảm bảo. Đây là một trong nguồn gây ô nhiễm môi trường sống trong xã. Xã chưa có khu vực xử lý rác thải tập trung, 20% hộ dân chưa có nhà vệ sinh hợp chuẩn. Khu B 100% sử dụng giếng khơi, chưa có hệ thống cấp nước sạch nên sẽ bị ảnh hưởng khi ngập lụt.
2. Công tác quản lý, đánh giá và phòng, chống thiên tai của xã
Hàng năm UBND xã ra quyết định kiện toàn Ban chỉ huy PCLB - TKCN do Chủ tịch UBND xã làm trưởng ban. Ban chỉ huy PCLB - TKCN chỉ đạo các tổ phụ trách phối hợp với các khu rà soát, kiểm tra, khoanh vùng các khu vực có nguy cơ ngập lụt để tiến hành sơ tán dân khi có thiên tai xảy ra đảm bảo an toàn cho nhân dân. Ban chỉ huy PCLB - TKCN xã phân công các trách nhiệm các thành viên trực 24/24 giờ khi có thiên tai xảy ra. Chỉ đạo Ban Công an xã và Ban chỉ huy quân sự xã trực gác ở các đoạn đường hay bị ngập và có nguy cơ không an toàn trên địa bàn. Cảnh báo và ngăn chặn người và phương tiện giao thông đi lại khi nước về nhằm hạn chế tai nạn xảy ra. Thường xuyên theo dõi diễn biến thiên tai, thời tiết để thông báo cho dân biết để chủ động phòng chống. Sau mỗi lần thiên tai xảy ra đều thực hiện nghiêm túc việc đánh giá thiệt hại đồng thời có các biện pháp khắc phục ngay và rút ra bài học kinh nghiệm. Hàng năm, UBND xã triển khai tốt công tác phòng chống thiên tai và thực hiện đúng sự chỉ đạo của cấp trên. UBND xã và Ban chỉ huy PCLB xã đã họp triển khai các văn bản trên đến các thành viên BCH PCLB xã, các trưởng khu hành chính, các HTX và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong đó có đại diện của Hội LHPN xã Quang Húc. Ban chỉ huy PCLB của xã thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và huy động sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể tại xã sẵn sàng lực lượng và phương tiện đối phó và ứng cứu khi có thiên tai xảy ra. Khi có thiên tai ban chỉ huy PCLB chỉ đạo sử dụng các phương tiện sẵn có tại địa phương như: ôtô, xe máy, xe trâu, thuyền để sơ tán người dân ra khỏi khu vực nguy hiểm nơi không đảm bảo an toàn; tập trung triển khai biện pháp đảm bảo an toàn cho người và tài sản, đặc biệt đối tượng dễ bị tổn thương trong tình huống thiên tai khẩn cấp. Thực hiện hoạt động tìm kiếm cứu nạn, cứu chữa người bị thương, chỉ đạo cán bộ y tế xã chăm sóc sức khỏe cho nhân dân không để dịch bệnh xảy ra. Hỗ trợ lương thực, thuốc chữa bệnh, nước uống và nhu yếu phẩm khác tại khu vực bị chia cắt, khu vực ngập lụt nghiêm trọng và địa điểm sơ tán. Kịp thời động viên thăm hỏi những gia đình bị nạn. Nhân dân có tinh thần đoàn kết sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi có rủi ro hoạn nạn.
Các tổ chức xã hội còn thiếu và yếu về kỹ năng, các phương tiện cứu hộ, cứu nạn trên sông còn thiếu (85% các hộ dân ven sông không có thuyền; 100% các hộ dân ven sông không có áo phao). Trang thiết bị về cứu hộ cứu nạn cho Ban CH PCLB - TKCN xã, khu hành chính thiếu, trên 70% hộ dân không có thuyền, 80% hộ dân trong xã không có áo phao hoặc các phương tiện cứu hộ, cứu nạn khác.
Công tác tuyên truyền, tập huấn về công tác phòng tránh thiên tai chưa thường xuyên và chưa sâu rộng. Cán bộ làm công tác PCTT kiêm nhiệm, không có nhiều thời gian đầu tư công sức cho công tác PCTT, trình độ năng lực của một số cán bộ cơ sở còn hạn chế chưa được tập huấn.
Nhận thức của người dân về công tác phòng chống thiên tai còn hạn chế, chưa nhận thức hết được các nguy hiểm do thiên tai có thể gây ra, một số người dân có tư tưởng chủ quan, trông chờ vào các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội. Thiếu kiến thức, kỹ năng nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi trước tác động của các loại hình thiên tai.
Qua kết quả đánh giá tại địa phương, người dân đã xác định được 8 loại hình thiên tai đã xảy ra trên địa bàn xã Quang Húc trong những năm qua được người dân quan tâm và những hậu quả nặng nề do thiên tai gây ra đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, kinh tế; sản xuất kinh doanh và sức khỏe của người dân, gây thiệt hại tài sản của nhân dân, làm hư hỏng các hệ thống cơ sở hạ tầng của địa phương. Sạt lở bờ sông làm giảm diện tích đất gieo trồng và có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng người dân khi đi sản xuất. Hiện tượng ngập úng dẫn đến nhiều diện tích gieo trồng lúa chỉ trồng được 1 vụ, diện tích đất soi bãi thường xuyên bị ngập úng vào mùa lũ, một số diện tích canh tác lại ở vị trí cao, hệ thống tưới khó lên nên thường bị thiếu nước về mùa khô dẫn đến mất mùa hoặc giảm năng xuất cây trồng, ảnh hưởng đến chăn nuôi; làm giảm thu nhập từ sản xuất nông nghiệp ngoài ra ảnh hưởng đến sức khoẻ con người nhất là những đối tượng dễ bị tổn thương.
Nhận thức của người dân về công tác phòng chống thiên tai còn hạn chế, chưa nhận thức hết được các nguy hiểm do thiên tai có thể gây ra, một số người dân còn tư tưởng chủ quan, trông chờ vào các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội. Nhiều người còn thiếu kiến thức, kỹ năng nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ cây trồng, vật nuôi trước tác động của các loại hình thiên tai.
Hoạt động của dự án Nâng cao năng lực thể chế về quản lý rủi ro thiên tai tại Việt Nam, đặc biệt các rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu tại xã Quang Húc, huyện Tam Nông, Phú Thọ nhằm hỗ trợ cấp xã quản lý, đánh giá các loại hình rủi ro thiên tai tại cộng đồng có lồng ghép giới vừa qua đã tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của người dân (trong đó có sự tham gia của nam giới và phụ nữ) về ý thức khai thác tiềm năng thế mạnh tự phòng tránh, giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai. Bước đầu người dân đã nhận thức và khắc phục được tư tưởng trông chờ vào sự đầu tư, hỗ trợ của nhà nước, cách nhìn nhận của cộng đồng về thế mạnh của phụ nữ và nam giới đã thực sự thay đổi theo chiều hướng bình đẳng giới hơn, có sự tôn trọng với đóng góp và sự tự chủ của lực lượng phụ nữ trước, trong và sau thiên tai. Từ đó, những kinh nghiệm từ người dân được phổ biến, góp phần tích cực của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về phòng tránh và giảm nhẹ rủi ro thiên tai.
Ths. Nguyễn Thị Kim Khánh