1. Quy chế có tính linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo được sự quản lý của Bộ GD&ĐT đồng thời khuyến khích được tính tự chủ, công khai, minh bạch trong công tác tuyển sinh của mỗi trường. 100% các trường đều phải xây dựng và công khai Đề án tuyển sinh, và chịu trách nhiệm giải trình về các nội dung của Đề án; đồng thời, gửi về Bộ GDĐT để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra. Cơ sở đào tạo phải cung cấp đầy đủ các thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng: cơ sở vật chất (phòng học, phòng thực hành/thí nghiệm và các trang thiết bị chính yếu, học liệu), đội ngũ giảng viên, quy mô đào tạo…Bộ GDĐT tổ chức thẩm định độc lập việc kê khai thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng của các trường. Nếu phát hiện trường hợp kê khai thông tin không đúng với điều kiện thực tế thì Bộ GDĐT sẽ quyết định dừng tuyển sinh đối với ngành/nhóm ngành liên quan. Từ năm 2018 trở đi, ngoài các thông tin nêu trên, các trường phải công bố thêm: tổng chi phí để đào tạo 1 sinh viên/năm, tỷ lệ sinh viên chính quy có việc làm sau 12 tháng kể từ khi tốt nghiệp của 2 khóa gần nhất so với năm tuyển sinh (theo nhóm ngành). Khi các trường công khai đầy đủ, chuẩn xác các thông tin này thì mỗi trường tự xác định ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào cho trường mình.

      2. Năm 2017 vẫn còn “điểm sàn”; từ năm 2018: không còn “điểm sàn” chung.

      3. Không giới hạn số lượng ngành, trường đăng ký xét tuyển Thí sinh được đăng ký nguyện vọng theo mong muốn, không giới hạn số nguyện vọng cũng như số trường. Ví dụ thí sinh có thể đăng ký ngành A nào đó vào nhiều trường có ngành này, nhưng có mức điểm trúng tuyển khác nhau, để khi không trúng tuyển trường điểm cao thì có thể trúng tuyển trường có điểm thấp hơn.
      4. Mỗi tổ hợp xét tuyển gồm 3 môn thi/bài thi Căn cứ ngưỡng này, các trường công bố cách xét tuyển vào các ngành của trường. Trường sử dụng kết quả thi THPT quốc gia để xét tuyển thì tổ hợp xét tuyển có thể kết hợp theo bài thi hoặc theo môn thi thành phần nằm trong bài. Các tổ hợp này phải đảm bảo nguyên tắc sử dụng kết quả của 3 môn thi/bài thi, trong đó có ít nhất một trong hai môn thi độc lập toán, ngữ văn để xét tuyển (không sử dụng nhiều hơn 4 tổ hợp môn thi/bài thi để xét tuyển cho một ngành).Riêng đối với các trường, ngành năng khiếu, sử dụng kết quả của 3 bài thi/môn thi, trong đó có ít nhất một bài thi toán hoặc ngữ văn kết hợp với kết quả thi năng khiếu để xét tuyển. Tùy theo yêu cầu của ngành đào tạo, các trường có thể quy định bài thi/môn thi chính được nhân hệ số khi xét tuyển.

      5. Đăng ký xét tuyển cùng lúc nộp hồ sơ dự thi. Để xét tuyển đợt 1, thí sinh nộp phiếu đăng ký xét tuyển (ĐKXT) cùng với hồ sơ đăng ký dự thi THPT quốc gia theo quy định của sở GD-ĐT kèm theo lệ phí ĐKXT. Trong các đợt xét tuyển bổ sung, thí sinh thực hiện ĐKXT và nộp lệ phí theo quy định của trường.

      6. Được thay đổi nguyện vọng xét tuyển. Sau khi có kết quả thi THPT quốc gia, thí sinh được điều chỉnh nguyện vọng ĐKXT một lần trong thời gian quy định, bằng phương thức trực tuyến hoặc trực tiếp tại nơi đăng ký dự thi.Việc điều chỉnh nguyện vọng sau khi có kết quả thi được thực hiện trực tuyến với tài khoản và mã số thí sinh đã được hệ thống cung cấp khi đăng ký dự thi.Nhờ phương thức điều chỉnh trực tuyến nên thí sinh không phải gửi hồ sơ qua bưu điện hay phải đến nộp tại trường.

      7. Xét tuyển theo kết quả thi, không phân biệt thứ tự nguyện vọng đăng ký.  Ở đợt 1, đối với các trường, ngành, thí sinh được xét tuyển bình đẳng theo kết quả thi, không phân biệt thứ tự ưu tiên của nguyện vọng đăng ký. Nhưng đối với từng thí sinh, xét tuyển được thực hiện theo thứ tự ưu tiên của các nguyện vọng, thí sinh chỉ trúng tuyển vào 1 nguyện vọng ưu tiên cao nhất có thể trong danh sách các nguyện vọng đã đăng ký. Khi hệ thống đã xác định được nguyện vọng trúng tuyển này rồi thì lập tức những nguyện vọng còn lại sẽ bị xóa. Ví dụ ngành A lấy điểm chuẩn 20 điểm thì tất cả những thí sinh đã đăng ký vào ngành A có điểm thi từ 20 điểm trở lên dù đăng ký bất kỳ nguyện vọng nào cũng được xếp vào danh sách trúng tuyển. Tuy nhiên, khi thí sinh đã trúng tuyển nguyện vọng 3 vào trường X, nguyện vọng 5 vào trường Y, nguyện vọng 6 vào trường Z thì thí sinh này chỉ được báo trúng tuyển vào duy nhất trường X (có nguyện vọng cao nhất trong số các nguyện vọng đã trúng tuyển).

       8. Xét tuyển bổ sung điểm chuẩn không thấp hơn đợt 1.  Xét tuyển bổ sung có thể được thực hiện một lần hay nhiều lần. Các trường thông báo điều kiện xét tuyển bổ sung, điểm nhận hồ sơ xét tuyển bổ sung không được thấp hơn điểm trúng tuyển đợt 1. Thí sinh chưa trúng tuyển hay đã trúng tuyển mà chưa xác nhận nhập học vào bất cứ trường nào có thể thực hiện ĐKXT bổ sung trực tuyến hoặc theo phương thức khác do trường quy định.

      9. Phải xác nhận nhập học khi trúng tuyển. Thí sinh có trách nhiệm xác nhận nhập học vào trường đã trúng tuyển trong thời hạn quy định bằng cách gửi bản chính giấy chứng nhận kết quả thi đến trường bằng thư chuyển phát nhanh hay nộp bằng phương thức khác do trường quy định. Các trường có quyền từ chối tiếp nhận hoặc buộc thôi học nếu thí sinh không đảm bảo các điều kiện trúng tuyển khi đối chiếu thông tin ĐKXT và dữ liệu đăng ký dự thi với hồ sơ gốc.

      10. Điều chỉnh quy định chặt chẽ hơn về đào tạo nguồn nhân lực thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ Các trường ĐH đóng trên địa bàn các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ được xét tuyển những thí sinh có hộ khẩu thường trú từ 3 năm trở lên, học 3 năm liên tục và tốt nghiệp trung học tại các tỉnh thuộc khu vực này với kết quả thi (tổng điểm 3 bài thi/môn thi của tổ hợp dùng để xét tuyển) thấp hơn ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào 1,0 điểm (theo thang điểm 10) và phải học bổ sung kiến thức một học kỳ trước khi vào học chính thức. Chương trình bổ sung kiến thức do Hiệu trưởng các trường quy định.